Câu hỏi:
Người lao động ký hợp đồng xác định thời hạn, đã báo trước cho người sử dụng lao động biết trước 30 ngày nhưng trong thời hạn 30 ngày này không đi làm đầy đủ, thiếu 8 ngày. Đơn đề nghị xin chấm dứt hợp đồng ghi nguyên nhân do mức lương quá thấp. Vậy người lao động xin chấm dứt hợp đồng với nguyên nhân lương thấp có đúng luật không?
Trả lời:
A) Về căn cứ chấm dứt Hợp đồng lao động:
Căn cứ khoản 1 Điều 37 Bộ luật lao động quy định về quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động của người lao động như sau:
“Điều 35. Quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động của người lao động
…..
2. Người lao động có quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động không cần báo trước trong trường hợp sau đây:
a) Không được bố trí theo đúng công việc, địa điểm làm việc hoặc không được bảo đảm điều kiện làm việc theo thỏa thuận, trừ trường hợp quy định tại Điều 29 của Bộ luật này;
b) Không được trả đủ lương hoặc trả lương không đúng thời hạn, trừ trường hợp quy định tại khoản 4 Điều 97 của Bộ luật này;
c) Bị người sử dụng lao động ngược đãi, đánh đập hoặc có lời nói, hành vi nhục mạ, hành vi làm ảnh hưởng đến sức khỏe, nhân phẩm, danh dự; bị cưỡng bức lao động;
d) Bị quấy rối tình dục tại nơi làm việc;
đ) Lao động nữ mang thai phải nghỉ việc theo quy định tại khoản 1 Điều 138 của Bộ luật này;
e) Đủ tuổi nghỉ hưu theo quy định tại Điều 169 của Bộ luật này, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác;
g) Người sử dụng lao động cung cấp thông tin không trung thực theo quy định tại khoản 1 Điều 16 của Bộ luật này làm ảnh hưởng đến việc thực hiện hợp đồng lao động.”
Nguyên nhân người lao động xin nghỉ việc là mức lương Công ty trả quá thấp. Theo quy định nêu trên thì căn cứ xin chấm dứt Hợp đồng của người lao động là không đúng quy định của pháp luật. Liên quan đến tiền lương thì người lao động chỉ có thể xin chấm dứt Hợp đồng lao động trước thời hạn khi không được trả lương đầy đủ hoặc trả lương không đúng thời hạn đã thỏa thuận trong hợp đồng lao động;
2) Thời gian thông báo trước khi đơn phương chấm dứt hợp đồng:
Theo điểm b khoản 1 điều 35 Bộ luật Lao động 2019 quy định:
“Điều 35. Quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động của người lao động
1. Người lao động có quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động nhưng phải báo trước cho người sử dụng lao động như sau:
a) Ít nhất 45 ngày nếu làm việc theo hợp đồng lao động không xác định thời hạn;
b) Ít nhất 30 ngày nếu làm việc theo hợp đồng lao động xác định thời hạn có thời hạn từ 12 tháng đến 36 tháng;
c) Ít nhất 03 ngày làm việc nếu làm việc theo hợp đồng lao động xác định thời hạn có thời hạn dưới 12 tháng;
d) Đối với một số ngành, nghề, công việc đặc thù thì thời hạn báo trước được thực hiện theo quy định của Chính phủ.
Như vậy, người lao động báo trước 30 ngày nhưng không đi làm đủ số thời gian báo trước.”
Điều 39 Bộ luật lao động năm 2019 quy định đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động trái pháp luật như sau:
“Điều 39. Đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động trái pháp luật
Đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động trái pháp luật là trường hợp chấm dứt hợp đồng lao động không đúng quy định tại các điều 35, 36 và 37 của Bộ luật này.”
Người lao động nghỉ việc không có căn cứ, không tuân thủ thời gian báo trước, vi phạm khoản 1, khoản 2 điều 35 Bộ luật lao động thuộc trường hợp đơn phương chấm dứt hợp đồng trái pháp luật.
Nếu người lao động chấm dứt Hợp đồng lao động trái luật thì không được trợ cấp thôi việc và bồi thường cho người lao động nửa tháng tiền lương theo Hợp đồng lao động, 8 ngày tiền lương do vi phạm thời hạn báo trước theo Điều 40 Bộ luật Lao động 2019, cụ thể:
“Điều 40. Nghĩa vụ của người lao động khi đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động trái pháp luật
1. Không được trợ cấp thôi việc.
2. Phải bồi thường cho người sử dụng lao động nửa tháng tiền lương theo hợp đồng lao động và một khoản tiền tương ứng với tiền lương theo hợp đồng lao động trong những ngày không báo trước.
3. Phải hoàn trả cho người sử dụng lao động chi phí đào tạo quy định tại Điều 62 của Bộ luật này.”
Vì chị A chấm dứt Hợp đồng lao động trái luật nên Công ty có quyền yêu cầu Tòa án buộc chị A phải bồi thường nửa tháng tiền lương, tiền lương của số ngày không báo trước: 8 ngày. Trường hợp này người lao động không được trợ cấp thôi việc.
____________________________
Để được hỗ trợ và tư vấn chi tiết, Quý khách hàng vui lòng liên hệ chúng tôi quahotline +84 9888 999 26 hoặc email xuanduong@luatdaiviet.vn
Phòng Pháp luật Doanh nghiệp (VnLaw) – Công ty Luật TNHH Đại Việt
Địa chỉ: Số 09 Vạn Phúc, Liễu Giai, Ba Đình, Hà Nội